Lời Ban Biên tập: Cách đây 20 năm, Giáo sư - Hiệu trưởng Trần
Phương đã thành lập Trường Đại học Dân lập Quản lý và Kinh doanh Hà Nội, nay đã
đổi tên là Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội. Những đóng góp của nhà trường
cho đất nước đến nay không thể không kể đến vai trò của Giáo sư - Hiệu trưởng -
vị tổng công trình sư của nhà trường. Kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Trường, xin
kính chúc Giáo sư Trần Phương có một sức khỏe thật tốt để đưa Trường Đại học
Kinh doanh và Công nghệ lên một tầm cao mới. Dịp này, Trang tin Truyền thông
trích đăng bài viết của cố Giáo sư Đặng Phong viết về Giáo sư Trần Phương, được
đăng trên Kỷ yếu 100 năm thành lập Đại học Quốc gia Hà Nội. Trân trọng giới thiệu
đến bạn đọc.

Trần Phương tên thật là Vũ Văn Dung, SN 1927, con một nhà
nho nghèo ở một làng quê huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông đậu tiểu học khi chưa
đầy 12 tuổi. Nhưng sau đó phải ở nhà. Thời đó, chỉ ở Hà Nội mới có trường trung
học. Nhà nghèo, lấy tiền ở đâu mà ra Hà Nội ăn học? Rồi bỗng có người mách bảo:
Muốn ra Hà Nội học, chỉ có một cách là thi vào Trường Bưởi, mà phải giành lấy vị
trí đầu bảng để được nhà nước bảo hộ cấp học bổng toàn phần, nghĩa là được ăn ở
nội trú không mất tiền. Vũ Văn Dung đã đạt được mục tiêu đó lúc 14 tuổi.
Rồi học ở trường Bưởi 2 năm, khi mới 16 tuổi, ông đã sớm
tham gia hoạt động cách mạng. Bị mật thám truy nã, ông phải tạm lánh về vùng
quê để tiếp tục hoạt động. Hai năm sau đó, năm 1945, ở tuổi 18, ông trở thành một
trong những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở huyện quê hương ông. Gần như suốt
cuộc kháng chiến chống Pháp, ông hoạt động ở vùng địch hậu đồng bằng sông Hồng,
đảm nhiệm nhiều trọng trách khi còn rất trẻ: Bí thư Huyện uỷ năm 19 tuổi, Phó
bí thư Tỉnh uỷ Hưng Yên năm 21 tuổi, Giám đốc Sở Thông tin Liên khu III và kiêm
Chủ nhiệm báo Cứu quốc Liên khu III năm 22 tuổi, Khu ủy viên Khu Tả ngạn năm 27
tuổi. Cái tên Trần Phương là bí danh cuối cùng của ông trong thời gian hoạt động
ở địch hậu, được giữ lại cho đến tận bây giờ.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ông được Trung ương cử sang
Trung Quốc để đào tạo về lý luận ở Học viện Mác - Lênin. Sau 2 năm, ông được cử
làm Chủ nhiệm Khoa Kinh tế. Sự nghiệp của ông bắt đầu từ đó.
Đầu năm 1959, ông được cử về Uỷ ban Khoa học Nhà nước, cùng
ông Bùi Công Trừng xây dựng Viện Kinh tế học.
Năm 1965, ông là Uỷ viên Đảng - Đoàn, Uỷ ban Khoa học Xã hội.
Đến năm 1968, ông được cử làm Phó chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Xã hội. Ông giữ
trách nhiệm lãnh đạo Uỷ ban Khoa hoc Xã hội 10 năm nữa, cho đến khi được điều động
khỏi nghề nghiên cứu khoa học để chuyển sang nghề quản lý kinh tế.
Giới kinh tế học thời đó có một đặc điểm khác với nhiều
ngành khoa học khác: Phần sản phẩm tinh tuý và công phu nhất của nó lại không
phải là những công trình xuất bản công khai, mà là những kiến nghị, những đề
án, những báo cáo... Những thứ đó không thể in và phát hành rộng rãi trong xã hội,
mà chỉ có thể trực tiếp gửi cho những cơ quan cao nhất của Đảng và Chính phủ.
Trần Phương cũng giống như nhiều nhà kinh tế học cỡ lớn thời đó, không viết nhiều
sách.(…)
Viết một công trình khoa học kinh tế để công bố, nhất là nói
đến những vấn đề đường lối, quan điểm chiến lược, không dễ dàng chút nào. Thường
phải gọt đẽo kỹ càng tới mức không còn bao nhiêu cái sắc nét nữa. Cũng do đó,
những cái thú vị nhất lại là những cái "lưu hành nội bộ".
Phần "Lưu hành nội bộ" sáng giá nhất trong cuộc đời
khoa học của Trần Phương có lẽ là những đóng góp trực tiếp cho Tổng Bí thư Lê
Duẩn.

Từ năm 1965 trở đi, ông bắt đầu được Tổng Bí thư chú ý vì những
ý kiến và những bài nghiên cứu của ông. Sau đó, ông trở thành một trong những
trợ lý gần gũi nhất của Tổng Bí thư. Trên cương vị đó, ông đã có những ảnh hưởng
đáng kể đến những suy nghĩ và quyết định của Tổng Bí thư trong lĩnh vực kinh tế.
Nói rằng Trần Phương có những ảnh hưởng đáng kể tới những
suy nghĩ của Tổng Bí thư, cũng có nghĩa rằng Trần Phương không phải là một cái
bóng của Tổng Bí thư. Bằng những hiểu biết và những thực tế mà ông quan sát được,
ông đã can ngăn nhiều ý tưởng, hoàn thiện và đôi khi cũng điều chỉnh những suy
nghĩ. Tổng Bí thư trọng dụng ông vì lý do đó. Hai con người này đã tạo thành một
"sự gắn bó" suốt trong 20 năm, cho tới khi Tổng Bí thư qua đời
(1986).
Trong số nhiều đóng góp của Trần Phương đối với tư tưởng
kinh tế Việt Nam, có thể kể đến một số "công lao" không phải là vạch
đường chỉ lối, mà là can ngăn và điều chỉnh.
Ông cũng từng khác ý với Lê Duẩn trong cách nhìn nhận bước
đi ban đầu của công nghiệp hoá. Theo Lê Duẩn thì phải bắt đầu từ các ngành công
nghiệp cơ bản, trong nông nghiệp thì phải bắt đầu bằng cơ giới hoá. Trần Phương
cho rằng phải bắt đầu công nghiệp hoá từ nông nghiệp, mà muốn đưa năng suất của
nông nghiệp lên thì không thể và không nên bắt đầu bằng cơ giới hoá, mà phải từ
giống và phân bón (Bài "Bàn về bước đi..."). Tư tưởng này cuối cùng
đã được chấp nhận.


Nền kinh tế cũng như các cơ quan kinh tế thời đó là những
nơi "chiêu hiền đãi sĩ". Bất cứ ai có khả năng nghiên cứu đều được Viện
trưởng "vời". Nhưng như ông nói sau này, ông đã "vời về đó hơn
400 con người, rồi lại phải ký quyết định chuyển công tác cho khoảng trên 300 vị.
Tại sao vậy? Hầu hết những cán bộ nghiên cứu đều không từ một nguồn đào tạo đầy
đủ nào cả, mà lấy ngang lấy tắt: một số từ trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, một số từ
các ban nghiên cứu của Phủ Thủ tướng, một số từ các cơ quan tham mưu của quân đội,
một số từ các bộ, các ty, sở... Những người này đã mất phần lớn thời gian cho
cuộc cách mạng và kháng chiến. Tri thức nghiên cứu không đủ, cái đà nghiên cứu
khoa học cũng không có, nên hiệu quả nghiên cứu rất hạn chế. Thực tế đó làm nảy
sinh trong đầu GS. Trần Phương một ý tưởng: Phải đào tạo những nhà kinh tế. Ông
đã từng mở một lớp bồi dưỡng cho các cán bộ đầu đàn, do các chuyên gia Liên Xô
giảng dạy. Nhưng thế hệ này còn làm việc được bao lâu nữa? Về lâu dài, phải bắt
đầu đào tạo lớp trẻ, tức là tuyển những học sinh tốt nghiệp phổ thông để đào tạo
chính quy. Muốn thế, phải mở ra ở bậc đại học một khoa chuyên về Lý luận kinh tế.
Khoa đó không thể để trong Trường Đại học Kinh tế Quốc dân là nơi có mục tiêu
đào tạo cán bộ thực hành. Thế là Khoa Kinh tế Chính trị thuộc Trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội được thành lập vào tháng 11-1974 với nhiệm vụ là đào tạo cán bộ kinh
tế chính trị có khả năng phân tích, hoạch định chính sách, khả năng nghiên cứu
kinh tế chính trị, GS. Trần Phương là người sáng lập và cũng là Chủ nhiệm khoa
đầu tiên.
GS. Trần Phương đã huy động hầu hết cán bộ của Viện Kinh tế
sang làm cán bộ giảng dạy và cán bộ quản lý, thậm chí cả cán bộ hành chính cho
Khoa này. Hệ thống thư viện, phòng tư liệu của Viện Kinh tế cũng được ông giao
nhiệm vụ phục vụ nhu cầu học tập và giảng dạy của Khoa.
Khi Khoa mới được thành lập, GS. Trần Phương đã dành thời
gian trực tiếp lên lớp giảng bài và báo cáo ngoại khóa cho sinh viên. Những ai
đã được nghe ông giảng bài, hoặc nghe ông nói chuyện đều có ấn tượng rất sâu sắc
về kiến thức uyên thâm, về phương pháp dạy, hình thành ở người học bản lĩnh,
phương pháp tư duy và đặc biệt là niềm say mê khám phá khoa học.
GS. Trần Phương rất quan tâm đến hoạt động nghiên cứu khoa học
của sinh viên, bởi chính ông là một nhà nghiên cứu. Trong 4 năm học, sinh viên
Khoa Kinh tế được 3 lần đi thực tập để khảo sát thực tế và viết báo cáo khoa học.
GS. Trần Phương đã nhiều lần trực tiếp đưa sinh viên xuống địa bàn thực tập, trực
tiếp đọc, góp ý cho các luận văn. Về viết, ông rất nghiêm khắc và đòi hỏi cao.
Ông đặc biệt chú trọng đến tính độc lập, sự sắc sảo và cả những gai góc trong
nghiên cứu. Nhờ vậy, sinh viên của ông trưởng thành nhanh về năng lực và bản
lĩnh nghiên cứu khoa học.
Nhưng GS. Trần Phương chỉ trực tiếp làm Chủ nhiệm Khoa trong
4 năm (1974 - 1978). Vào những năm cuối thập kỷ 70 thế kỷ XX, việc "truyền
đạo" chỉ là một phần trong các hoạt động của ông. Việc đời còn ngổn ngang
bao cuốn hút: nhiều vấn đề đại sự của quốc gia đang đòi hỏi ông phải tham gia
giải quyết. Sau khi đã thành lập Khoa Kinh tế và vực nó cho có đà, ông đã trao
chức Chủ nhiệm khoa cho một Viện trưởng mới lên thay ông, để ông rảnh tay lo
"việc đời".(…)
Năm 1976, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, Trần Phương
trúng cử Ban Chấp hành Trung ương. Đến năm 1977, Trần Phương được điều ra khỏi
"nghề" nghiên cứu khoa học kinh tế để đi vào điều hành kinh tế. Đương
nhiên, trong con người ông vẫn luôn luôn tồn tại một nhà kinh tế. Trước hết,
ông được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội thương.
Trong "việc đời" này, ông có nhiều đóng góp cho
kinh tế. Có thể ghi nhận rằng ở cương vị "tham chính" ông đã có một số
tác động tích cực cho những chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam, đặc biệt là trong những
bước khởi đầu gian nan nhất.
Một trong những đóng góp lớn đó là giải toả cho nông dân khỏi
cái "ách" của chế độ thu mua nông sản. Câu chuyện này thì có thể viết
thành cả một "thiên sử", ở đây chỉ xin nói vắn tắt thôi. Từ những năm
đầu thập kỷ 60 thế kỷ trước, bắt đầu có chế độ nghĩa vụ bán nông sản cho Nhà nước,
coi là điều đương nhiên trong CNXH. Nhất là trong hoàn cảnh có chiến tranh thì
nghĩa vụ đó còn là một nhiệm vụ chính trị, một biểu hiện của lòng yêu nước. Là
những người mác xít, những người cộng sản, lúc đó không ai thắc mắc về chuyện
này. Vấn đề là nghĩa vụ như thế nào, thì có hai quan điểm. Một bên, mà đại diện
là Uỷ ban Vật giá Nhà nước, cho rằng giá mua nông sản do họ tính đã đảm bảo có
lãi cho nông dân rồi. Công thức tính của họ thì không sai, khó bắt bẻ lắm.
Nhưng tại sao nông dân vẫn kêu, đến nỗi có nơi không ai muốn gặt lúa nữa? Trần
Phương quyết định cho Viện Kinh tế học tiến hành nghiên cứu độc lập về vấn đề
này. Đi vào thực tế của nhiều cơ sở, các nhà nghiên cứu của Viện phát hiện ra rằng
hoá ra cách tính của Uỷ ban Vật giá Nhà nước là sai, vì chỉ dựa trên những giả
định về những giá đầu vào, thấp hơn nhiều so với giá thực tế. Với giá mua đó,
nông dân không thể tái sản xuất được. Những bài nghiên cứu của Viện Kinh tế học
đã được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế. Nhưng tiếng nói chính thống thì vẫn
thuộc phía Uỷ ban Vật giá Nhà nước. Như vậy thì phải xuất tướng. Không còn là sự
tranh luận về học thuật nữa, mà là sự đối đầu giữa Viện Kinh tế học và Uỷ ban Vật
giá Nhà nước. Cả hai bên đều phải giải trình trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư về
những cách tính toán của mình. Phải nói rằng đối với Trần Phương thì đây là một
sự lựa chọn vừa có lương tri, vừa dũng cảm, vì vào thời kỳ đó, đụng đến hệ thống
giá là húc đầu vào một tảng "bê tông" kiên cố, có thể bị chụp cho vô
khối thứ "mũ" oan khiên. Viện trưởng Viện Kinh tế học đã vạch rõ những
cái sai của Uỷ ban Vật giá Nhà nước trước Bộ Chính trị. Trần Phương kể lại:
"Khi mình trình bày, tất cả các uỷ viên Bộ Chính trị và Ban Bí thư đều ngồi
im nghe, không ai nói một câu, dường như quả bom mình cho nổ quá bất ngờ! Riêng
ông Trường Chinh thì nhìn mình, mỉm cười."
Sau sự kiện này, năm 1976 ông Trần Phương được cử làm Bộ trưởng
Bộ Nội thương, sau đó làm Phó thủ tướng phụ trách 6 bộ, trong đó có cả Uỷ ban Vật
giá Nhà nước.(…)
Vào năm 1979, ông chuyển sang làm Bộ trưởng, Phó chủ nhiệm
Thường trực Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước. (…) Đến năm 1981, ông được tái cử làm Bộ
trưởng Bộ Nội thương. Ở đây ông đã thực thi nhiều tư tưởng kinh tế mà ông nung
nấu từ thời ở Viện Kinh tế học. Trong đó có một việc "tày đình" nữa
là dẹp bỏ các cửa hàng cung cấp đặc biệt ở Nhà thờ, Tôn Đản, Vân Hồ, Đặng Dung,
điều mà cũng phải dũng cảm lắm mới dám làm. Nhậm chức Bộ trưởng chưa đầy một
tháng, ông đã trình Bộ Chính trị một bản kiến nghị nổi tiếng: "Kiến nghị về
cải tiến quản lý thương nghiệp".
Tôi vẫn nhớ, có lần, vào khoảng 1983 - 1984, ngay từ khi ở đỉnh
cao của quyền lực, Trần Phương đã nói với tôi: "Kể ra làm Phó thủ tướng
vài năm để thi thố những tài năng của mình cũng là điều thú vị chứ cậu? Sau đó
tớ sẽ trở về làm nghề gõ đầu trẻ. Đó
cũng là một trong những nghề tớ thích nhất trên đời...". Điều ông nói hôm
đó sau này đã trở thành lời tiên tri. Khi về nghỉ hưu ở tuổi 65, ông bắt tay
vào thực hiện mơ ước đó. Và khác với cái mơ ước viết văn 40 năm trước, lần này
ông đã toại nguyện. Từ năm 1996, ông đứng ra thành lập trường Đại học Dân lập
Quản lý và Kinh doanh Hà Nội. Đây cũng là một trong những nơi quy tụ nhiều nhân
tài nhất trong lĩnh vực kinh tế của đất nước: năm chục giáo sư, tiến sĩ, trong
đó có một chục vị đã từng giữ chức Bộ trưởng, Thứ trưởng, đã về đây làm việc
cùng ông.
Có câu hát quan họ "Còn duyên kẻ đón người đưa. Hết
duyên đi sớm về trưa một mình". Ông quả là đã thôi quyền lực, thôi khả
năng ban phát chức tước và lợi ích cho người khác rồi. Nhưng nhân tài vẫn về với
ông. Những người đồng sự cũ vẫn không để ông "một mình". Hẳn là trong
thời gian ông cầm quyền, từ Viện trưởng Viện Kinh tế học cho tới Phó thủ tướng,
ông đã để lại những dấu ấn và những cảm tình không phai mờ nơi những người cộng
sự. Bởi lẽ đó, và có lẽ cũng chỉ bởi lẽ đó thôi, mà đến khi cả quyền, cả chức
đã hết, thì tình nghĩa vẫn đầy. Hoá ra ông vẫn còn "duyên".