KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN: 10 điểm đáng nhớ
Trong 20 năm qua, Khoa Công nghệ
thông tin (CNTT) đã có những kết quả mà chúng tôi đã đúc kết thành 10 điểm, cụ
thể:
1. Xây dựng nội bộ đoàn kết
Muốn thành công trước hết nội bộ
phải đoàn kết, nếu không, nội bộ sẽ phân nhóm “cát cứ” dẫn đến nhiều ý tưởng bị
xung đột. Khoa CNTT đã nhìn thấy “điểm huyệt” của vấn đề này ngay từ đầu và đã
có nhiều biện pháp chế ngự.
Một trong những điểm chính là
khâu tuyển dụng cán bộ nhân viên luôn đảm bảo đúng tiêu chuẩn, công khai, dân
chủ, minh bạch, công bằng và được toàn bộ Ban chủ nhiệm (BCN) khoa đồng ý. BCN
phải quan tâm đến cuộc sống vật chất và tinh thần của các thành viên trong
khoa. Tôn trọng cá tính của nhau, nhưng phải rất khách quan trong khâu đánh giá
cán bộ trên những nguyên tắc đã được quy định. Lãnh đạo khoa phải gương mẫu và
thực sự đoàn kết trước khi nói đến việc xây dựng khoa đoàn kết. Làm sao để mọi
thành viên trong khoa nhận thấy Khoa CNTT là một tổ ấm, mọi người được tôn
trọng và có “đất dụng võ”- nghĩa là có nơi để thực hiện những ý tưởng của mình.

2. Lãnh đạo Khoa thông qua các Tổ
bộ môn
Nói lãnh đạo khoa không có nghĩa
là lãnh đạo từng con người cụ thể mà là phải thông qua “thủ lĩnh” của những bộ
phận trong khoa, đảm bảo được hai tính năng: Đầu đàn về chuyên môn và “có uy”
trong lãnh đạo tổ là việc đầu tiên hết sức quan trọng và giữ cho nội bộ đoàn
kết lâu dài.
Khoa CNTT có: Tổ trợ lý; Tổ Tin
ứng dụng và Kỹ thuật phần mềm; Tổ Đảm bảo toán học; Tổ Khoa học máy tính; Tổ
Mạng và Truyền thông. Việc lãnh đạo khoa, quản lý cán bộ về chuyên môn cũng như
kỷ cương học đường thực chất là “truyền thông điệp” hai chiều giữa BCN và các
tổ trưởng này. Tất cả các seminar, các sinh hoạt học thuật, chuyên môn, sư phạm
và góp ý kiến đều xảy ra ở các tổ bộ môn này. Như vậy “quản lý khoa” thực chất
là liên tục “ổn định” các tổ này và mọi thông tin mà khoa có được cũng đều xuất
phát từ các tổ này.
3. Xây dựng lực lượng
Ngay từ đầu, Khoa CNTT cũng đã
xác định: Giảng viên phải có trình độ đủ mạnh thì mới thực hiện tốt nhiệm vụ
chính trị. Vì vậy, Khoa đã có kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn và có chế độ khuyến
khích giảng viên đi học thạc sĩ và tiến sĩ. Đến nay đã có 5 tiến sĩ, 3 đang học
tiến sĩ, 107 thạc sĩ, 1 cử nhân. Đây là một lực lượng mạnh mà Khoa CNTT đã dày
công phát triển.
4. Quản lý chặt kỷ cương học
đường
Khoa CNTT đã xác định năm nhiệm
vụ về kỷ cương học đường: Dạy và kết thúc buổi dạy phải đúng giờ; Nghỉ dạy vì
lý do bất khả kháng phải có người thay thế đúng chuyên môn; Kỷ luật trong buổi
dạy phải do giảng viên hôm đó chịu trách nhiệm; Dạy phải có giáo án điện tử;
Phải khắc họa bằng được nội dung chủ yếu của
môn học buổi dạy đó.
Các tổ trưởng bộ môn, trợ lý khoa
phải quản lý chặt về kỷ cương học đường. Nếu thành viên tổ vi phạm, thì tổ
trưởng có thành viên đó cũng bị truy cứu trách nhiệm.
5. Xây dựng tư liệu dạy học
Hoạt động đào tạo phải dựa trên
sự thống nhất của chương trình, mỗi giảng viên giảng dạy dựa trên nội dung cốt
lõi của môn học. Do đó Khoa CNTT luôn chỉ đạo phải làm 4 việc: Giáo trình môn
học, tài liệu tham khảo, câu hỏi trắc nghiệm và giáo án điện tử. Các tư liệu đó
phải đưa lên mạng để tận dụng tối đa công nghệ E-Learning.
6. “Cọ xát” ngoài xã hội
Để khẳng định được chất lượng và
chương trình đào tạo CNTT có phù hợp với xã hội hay không, hàng năm Bộ Giáo dục
và Đào tạo có phối hợp với Hội Tin học Việt Nam tổ chức thi Olympic Tin học
quốc gia cho sinh viên toàn quốc. Tuy điểm đầu vào của còn thấp nhưng Khoa CNTT
đã mạnh dạn luyện đội tuyển và tham gia thi Olympic Tin học quốc gia từ năm
2002. Năm nào chúng ta cũng được giải cao, có năm đạt giải vô địch. Điều đó nói
lên rằng: Chương trình đào tạo CNTT của chúng ta cập nhật kịp với sự phát triển
tin học trong xã hội, có cung cách đào tạo hợp lý; và chúng ta đã rất quan tâm
việc thực hành trên máy.
7. Cọ xát quốc tế

Bên cạnh đó, Khoa CNTT cũng mạnh
dạn thử sức mình trong các kỳ thi Lập trình sinh viên quốc tế. Chúng ta đã mạnh
dạn thành lập đội tuyển, luyện và thi đấu với các đội Châu Á. Ba năm qua, chúng
ta đều có giải, có năm được giải nhất online. Đặc biệt, năm 2015 chúng ta đã
đăng cai tổ chức thi Olympic và thi Lập trình sinh viên quốc tế tại Trường. Vị
Chủ tịch Hội đồng thi Lập trình sinh viên quốc tế phát biểu trong lễ tổng kết:
“Chúng tôi đã tổ chức thi Lập trình sinh viên quốc tế nhiều nơi nhưng đây là
nơi được tổ chức theo một hình thức mới rất hay mà chúng tôi cần học tập”.
8. Hướng nghiệp cho sinh viên
Chúng ta dạy trên 40 môn về CNTT,
môn nào cũng chỉ mang tính “khái niệm”, sinh viên sẽ rất lúng túng khi ra công
tác. Do đó, Khoa CNTT xác định cho sinh viên 5 lĩnh vực chính mà khi ra công
tác hay gặp: Một là các công việc về văn phòng; Hai là các công việc về mạng;
Ba là các công việc về web; Bốn là các công việc về lập trình cho máy tính; Năm
là các công việc lập trình cho các thiết bị phi máy tính (như điện thoại, ô tô,
máy móc khác).
Chúng tôi đã liết kết với VTC
Academy, ICDL... đã tổ chức ngay tại Khoa cho các em thi lấy chứng chỉ Tin văn
phòng quốc tế. Tổ chức các khóa học định hướng nghề nghiệp và tham quan theo
định hướng nghề nghiệp.
9. Xây dựng phần mềm
Để nâng cao công tác đào tạo,
Khoa CNTT cần phải xử lý các công việc trên nền tảng của một hệ thống phần mềm.
Khoa CNTT cùng với TT INTECEN và TT Tin học đã xây dựng các phần mềm phục vụ
cho công tác đào tạo và quản lý đào tạo của Trường. Việc giảng viên và sinh
viên liên tục làm quen với các phần mềm này là động lực quan trọng giúp họ có
các nhìn thực tế trong dạy và học CNTT.
10. Thực tập luận văn
Việc thực tập của sinh viên xưa nay vẫn theo
“nền nếp cũ” nghĩa là phân cho sinh viên về các cơ sở và sau đó phần lớn là “kệ
họ”. Sinh viên khó tiếp cận với cung cách làm việc của cơ sở thực tập. Vì vậy,
Khoa CNTT đã thiết kế một quy trình thực tập như sau: Coi các môn đồ án môn học
là một phần của thực tập; Việc thực tập cuối khóa là sự kết nối của các môn đồ
án thành một đồ án tầm cỡ hơn; Hàng tuần người thực tập phải báo cáo kết quả
bằng online; Đề tài thực tập phải phát triển thành luận văn; Đề tài thực tập
phải là một trong bốn định hướng nghề nghiệp; Xác định đề tài trước khi xác
định nơi thực tập; Các thành viên Hội đồng xem xét toàn bộ quá trình thực tập,
luận văn và phải có bút tích của người hướng dẫn để tránh copy luận văn khác
trên mạng.

Trên đây là một số kết quả và
kinh nghiệm mà Khoa CNTT đã xây dựng và đúc kết trong 20 năm qua. Khoa CNTT
mong được sự góp ý và trao đổi của lãnh đạo trường, lãnh đạo các khoa, phòng,
ban, các giảng viên và sinh viên trong trường.
Chủ nhiệm Khoa CNTT - TS. Hoàng Xuân Thảo